Bùi Thị Thanh Thủy, Hoàng Thanh Tâm, và
Trương Minh Đến
Trung tâm Phát triển Sáng kiến Cộng đồng và
Môi trường (C&E)
- Giới thiệu
Rừng cộng đồng đã tồn tại như là một phần
của truyền thống địa phương. Nó gắn các lợi ích của người dân với tín ngưỡng
tâm linh và tôn giáo của cộng đồng và đóng một vai trò quan trọng trong đời sống
và văn hóa của các nhóm dân tộc thiểu số. Để thúc đẩy lợi ích của cộng đồng và
vai trò của họ trong sự bền vững của rừng, từ những năm 1990 nhà nước Việt Nam đã bắt đầu triển
khai giao rừng cho cộng đồng quản lý
và sử dụng lâu. Theo số
liệu thống kê năm 2011, Việt Nam có tổng diện tích rừng là 13.565 triệu hecta,
trong đó đã giao 11,4 triệu hecta cho các chủ rừng gồm các tổ chức nhà nước,
các công ty tư nhân, cộng đồng dân cư thôn và các hộ gia đình (Bộ NN&PTNT,
2012).
Tuy nhiên, quá trình thể chế hóa và thực
hiện các chính sách có nhiều khó khăn và vấn đề như địa vị pháp lý của cộng đồng chưa rõ ràng. Các
quyền lợi và trách nhiệm pháp lý của cộng đồng như một chủ rừng thực sự vẫn
chưa được Nhà nước thừa nhận. Hệ thống chính sách về quyền của người dân để tiếp
cận, quản lý và sử dụng rừng tự nhiên vẫn còn khác biệt với thực tiễn nên những
chính sách này mới chỉ dừng lại ở văn bản/giấy tờ. Ví dụ người dân ít được tiếp
cận với các dịch vụ công, quỹ tín dụng, các hoạt động đầu tư từ chính phủ hoặc
các tổ chức, đặc biệt là không hiểu được quyền lợi và trách nhiệm của mình đối
với khu rừng được giao.
Hoạt động bảo vệ rừng, hay bảo tồn
đa dạng sinh học chỉ có hiệu quả khi có sự tham gia một cách đầy đủ của người
dân. Bài toán đặt ra là làm thế nào để huy động sự tham gia của cộng đồng vào
công tác giao đất giao rừng hiệu quả. Nâng quyền và trách nhiệm của cộng đồng đối
với chính rừng của người dân sẽ là một lời giải cho bài toán này.
Được sự hỗ trợ của Viện Rosa
Luxemburg Stiftung (RLS) vùng Đông Nam châu Á, Trung tâm Phát triển Sáng kiến Cộng
đồng và Môi trường đã phối hợp với hai đối tác địa phương là Hội Khoa học Kĩ
thuật Lâm nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế và Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Nam triển
khai dự án “Quản lý bền vững rừng tự
nhiên thông qua nâng cao nhận thức và năng lực để cải thiện việc sử dụng quyền
và địa vị pháp lý của người dân tộc thiểu số đối với rừng tự nhiên tại miền
Trung Việt Nam”.
Dự án đã góp phần nâng cao hiểu biết
của người dân liên quan các chính sách lâm nghiệp cộng đồng của nhà nước và
chính quyền địa phương. Đặc biệt, người dân đã chủ động trong việc tìm hiểu
thông tin, tiếp cận với các bên liên quan để tìm hiểu về những vấn đề liên quan
về quyền lợi và trách nhiệm đối với rừng được giao. Ngoài ra, nhận thức của phụ
nữ cũng được nâng cao thông qua các buổi tập huấn, đối thoại chính sách hay
tham quan học tập mô hình.
Sự thành công được đánh giá cao nhất
sau ba năm thực hiện dự án chính là mô hình quản lý rừng bền vững từ Câu lạc bộ
(CLB). Dự án đã hỗ trợ thành lập hai CLB sử dụng rừng thân thiện môi trường tại
thôn Aréh, xã Tà Lu và thôn Xà Nghìn I, xã Zà Hung thuộc huyện Đông Giang, tỉnh
Quảng Nam. Hỗ trợ kiện toàn Ban quản lý bảo vệ rừng cộng đồng tại bản Khe Trăn,
xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Các CLB/BQL được nâng cao
nhận thức và năng lực bằng nhiều hoạt động khác nhau như tập huấn, tọa đàm, cuộc
thi tìm hiểu kiến thức, hay tham quan học tập. Rừng cộng đồng được quản lý tốt
hơn từ mô hình này.
- Cách tiếp cận của dự án
Tối đa hóa sự tham gia của địa
phương, đặc biệt là cộng đồng, trong quá trình thiết kế và thực hiện dự án là
cách tiếp cận xuyên suốt của dự án. Các nhóm mục tiêu đã tham gia vào dự án
ngay từ giai đoạn thử nghiệm năm 2011 và năm 2012 là giai đoạn đầu tiên của dự
án ba năm 2012-1014 thông qua các hoạt động như điều tra đánh giá nhu cầu đào tạo,
2 hội thảo cấp tỉnh trong năm 2011, và nghiên cứu khảo sát tình hình thực tế
vào tháng 6 năm 2012. Kết quả của các hoạt động này đã được sử dụng trong thiết
kế các hoạt động dự án, gồm đào tạo và triển khai các mô hình sử dụng rừng thân
thiện với môi trường.
Những tri thức bản địa, luật tục và hương ước về
quản lý bảo vệ và phát triển rừng tại cộng đồng dân cư thôn được vận dụng một
cách linh hoạt vào các hoạt động của dự án. Nhằm đảm bảo rằng dự án luôn tôn trọng
những nét đẹp truyền thống về văn hóa, tâm linh tại địa phương liên quan rừng cộng
đồng.
Nhóm mục tiêu cũng đã và sẽ tiếp tục
tham gia vào quá trình theo dõi và đánh giá dự án, cung cấp thông tin phản hồi,
quan sát và đề xuất để cải thiện việc thực hiện dự án và mục tiêu chung là quản
lý bền vững rừng. Hoạt động tập huấn đã sử dụng cách
tiếp cận có sự tham gia và lấy học viên làm trung tâm, kết hợp lý thuyết với
thông tin và các vấn đề thực tế địa phương được áp dụng trong các khóa học. Sự
tham gia cũng được xem như một cơ hội cho cả nam và nữ những người có đủ khả
năng, điều kiện và cơ hội thể hiện quyền lợi của mình, để giúp họ xem xét và
rút ra bài học từ sự hiểu biết của họ.
Dự án lồng
ghép các vấn đề giới thông qua thiết kế và thực hiện, đảm bảo rằng phụ nữ dân tộc
thiểu số vốn là một nhóm yếu thế sẽ tham gia bình đẳng như nam giới vào tập huấn,
hội thảo, thực hiện mô hình sử dụng rừng thân thiện với môi trường và các hoạt
động liên quan khác. Cụ thể, nữ được khuyến khích tham gia trong tất cả các hoạt
của dự án với tối thiểu 20-25%, bày tỏ ý kiến của riêng mình, đại diện cho nhóm
trình bày kết quả thảo luận, đại diện cho cộng đồng với vai trò là người lãnh đạo,…
Sự tham gia của cộng đồng là xuyên
suốt quá trình của dự án và trong tất cả các cấp quản lý xã, huyện, tỉnh và địa
phương. Cộng đồng được thể hiện những quan điểm, chính kiến và chia sẻ những
kinh nghiệm trong hoạt động tọa đàm cấp xã, hội thảo cấp tỉnh hay trung ương.
Qua đó nâng cao vị thế và vai trò của cộng đồng trong tiến trình quản lý rừng tại
Việt Nam.
Những việc trên cùng với cách tiếp cận
dựa trên quyền và mô hình sử dụng rừng thân thiện môi trường là nguồn động lực
và trao quyền là chìa khóa để đảm bảo và tăng cường sự tham gia của nhóm mục
tiêu. Kết quả là các nhóm mục tiêu đã hiểu thêm về quyền và trách nhiệm của họ.
Và cộng đồng đã bắt đầu thực hiện các quyền và trách nhiệm hiệu quả hơn.
- Kết quả dự án
Sau ba năm thực hiện dự án tại hai tỉnh
Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, dự án đã đạt được các mục tiêu đề ra ban đầu. Cụ
thể:
- Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân
tộc thiểu số tại Thừa Thiên Huế và Quảng Nam về quyền lợi và trách nhiệm đối với
rừng được giao;
- Trợ giúp cộng đồng dân tộc thiểu số
địa phương phát triển phương thức sinh kế dựa vào rừng phù hợp với địa phương
và thân thiện với môi trường;
- Tăng cường năng lực cho cộng đồng địa
phương về công tác giao đất giao rừng có sự tham gia;
- Vận động chính sách cho mô hình rừng
cộng đồng – đảm bảo cân bằng lợi ích môi trường và lối sống truyền thống của cộng
đồng địa phương.
Bảng 1: Khung hoạt động của dự án
trong ba năm
Stt
|
Hoạt động
|
Thời gian
|
||
2012
|
2013
|
2014
|
||
1
|
Nâng cao nhận thức cho người dân
|
|||
1.1
|
Điều tra, nghiên cứu, đánh giá hiện
trạng địa phương
|
x
|
||
1.2
|
Tập huấn nâng cao nhận thức về quyền
lợi và trách nhiệm của người dân trong quản lý sử dụng rừng, kỹ năng lập kế
hoạch, làm việc nhóm
|
x
|
||
2
|
Phát triển các phương thức sinh kế
dựa vào rừng thân thiện môi trường
|
|||
2.1
|
Tập huấn về phương thức sinh kế dựa
vào rừng thân thiện môi trường
|
x
|
x
|
|
2.2
|
Hỗ trợ một số mô hình sử dụngrừng
thân thiện môi trường
|
x
|
||
3
|
Tăng cường năng lực cộng đồng về
tiến trình giao đất giao rừng có sự tham gia
|
|||
3.1
|
Rà soát tài liệu về tiến trình
giao đất giao rừng tại vùng dự án
|
x
|
||
3.2
|
Xây dựng các số tay hướng dẫn, tờ
rơi, liên quan đến GĐGR có sự tham gia
|
x
|
||
3.3
|
Tập huấn cung cấp các thông tin,
kiến thức cho người dân về tiến trình GĐGR có sự tham gia
|
x
|
||
4
|
Vận động chính sách cho mô hình dự
án
|
|||
4.1
|
Hội thảo cấp tỉnh
|
x
|
x
|
|
4.2
|
Hội thảo cấp quốc gia
|
x
|
||
4.3
|
Tài liệu hóa và phổ biến các tài
liệu của dự án
|
x
|
x
|
x
|
Dự án đã tổ chức hai cuộc khảo sát tại
2 tỉnh dự án để đánh giá mức độ hiểu biết, nhận thức của người dân về các chính
sách liên quan giao đất giao rừng. Ngoài ra dự án còn tiến hành một nghiên cứu
rà soát tài liệu văn bản pháp lý về tiến trình giao đất giao rừng cho cộng đồng
tại hai địa phương Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở các nghiên cứu này dự
án đã thiết kế các hoạt động can thiệp phù hợp với điều kiện địa phương và nguyện
vọng của cộng đồng. Với sự hình thành hai CLB sử dụng rừng thân thiện môi trường
thôn Aréh và thôn Xà Nghìn I và hỗ trợ kiện toàn Ban quản lý rừng cộng đồng bản
Khe Trăn để giúp chia sẻ thông tin đến người dân hiệu quả hơn. Hàng tháng các
CLB này tự tổ chức các buổi chia sẻ những hoạt động liên quan bảo vệ rừng, thảo
luận công việc sắp tới,...ngoài ra dự án có thiết kế các phương tiện truyền
thông như Pano, hay cung cấp các tủ sách, tờ rơi và sách hướng dẫn để cung cấp
thông tin cho người dân. Tất cả các hoạt động này nhằm mục đích nâng cao nhận
thức của người dân về tiến trình giao đất giao rừng tại địa phương, quyền lợi
và trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động quản lý bảo vệ và phát triển rừng.
Để trợ giúp cộng đồng phát triển các
phương thức sinh kế dựa vào rừng thân thiện môi trường. Trong ba năm, dự án đã
tổ chức các lớp tập huấn liên quan lâm sinh, cách thức quản lý tài chính và
công việc như thế nào cho hiệu quả,... Ngoài ra dự án đã tổ chức các buổi tham
quan học tập tới các địa phương khác có mô hình hiệu quả liên quan quản lý rừng
cộng đồng hay sinh kế dựa vào rừng để người dân tìm hiểu, áp dụng tại địa bàn của
thôn.
Tăng cường năng lực cho cộng đồng là
một trong những mục tiêu quan trọng của dự án. Nhiều lớp tập huấn liên quan tiến
trình giao đất giao rừng có sự tham gia, hay hướng dẫn cho cộng đồng thực hiện
như thế nào sau quá trình giao đất giao rừng, các lớp ngoại nghiệp và nội nghiệp
được triển khai cho cộng đồng. Hình thức tổ chức đa dạng như tại nhà GươL, hay
trong rừng của cộng đồng, lớp tập huấn mang tính thực tiển cao,...Sự tham gia của
phụ nữ là một trong những mục tiêu đặt ra của các lớp tập huấn. Phụ nữ được
tham gia vào tất các các lớp tập huấn và hoạt động khác của dự án. Điều này
giúp vai trò của phụ nữ tại cộng đồng được nâng cao. Ngoài ra dự án đã hỗ trợ
các vật tư như bàn ghế, tủ sách, hay loa cầm tay để giúp năng lực các thành
viên trong CLB/Ban quản lý rừng cộng đồng phát huy tốt nhất.
Trong ba năm hoạt động, dự án đã tổ chức
nhiều hoạt động liên quan vận động chính sách, bao gồm một hội thảo cấp Trung
ương, hai hội thảo cấp tỉnh và nhiều buổi tọa đàm cấp xã. Hoạt động này là cơ hội
giúp cộng đồng dân cư thôn được tiếp cận với các nhà hoạch định chính sách lâm
nghiệp cấp trung ương và địa phương. Người dân được thảo luận với cán bộ xã,
thôn và cán bộ kiểm lâm về những hoạt động liên quan. Chia sẻ những khó khăn để
cùng tìm cách giải quyết. Qua đó, chứng minh cộng đồng dân cư thôn là nhân tố
quan trọng nhất trong toàn bộ tiến trình quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng
đồng tại Việt Nam.
Kết quả cụ thể ba năm của dự án được
chúng tôi thể hiện qua hình ảnh dưới đây:
- Phát huy quyền và trách nhiệm
của cộng đồng từ hoạt động của dự án
4.1.
Phát
huy quyền của cộng đồng
Tham gia là
quyền cơ bản của cộng đồng. Mô hình CLB sử dụng rừng thân thiện môi trường khuyến
khích tất cả người dân trong thôn tham gia vào quá trình quản lý bảo vệ và phát
triển rừng. CLB được thành lập và hoạt động theo cơ chế dân chủ. Người dân tự
nguyện tham gia vào CLB, các thành viên trong CLB tự bình bầu Ban chủ nhiệm (1
chủ nhiệm, 2 phó chủ nhiệm, 1 thư ký), CLB sẽ tự xây dựng quy chế hoạt động, và
đã nhận được sự đồng thuận của chính quyền địa phương.
Trong các buổi
tọa đàm về chính sách, về cơ chế phối hợp giữa CLB sử dụng rừng thân thiện môi
trường với các bên liên quan như Ban quản trị thôn, UBND xã, hay Kiểm lâm,…Cộng
đồng dân cư đã biết, hiểu và thực hiện các thông tư chính sách liên quan lâm
nghiệp cộng đồng (Ví dụ: Thông tư 23 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
quy định về cải tạo rừng tự nhiên nghèo kiệt là rừng sản xuất). Họ đã mạnh dạn
hơn trong việc chia sẻ các hoạt động, những khó khăn trong quá trình hoạt động
quản lý bảo vệ rừng của cộng đồng. Đã đưa ra những đề xuất để kêu gọi sự hỗ trợ
từ các bên liên quan. Qua đó, tiếng nói của cộng đồng dân cư thôn được nâng
lên.
Sau quá trình
tham gia các hoạt động của dự án, đến nay CLB đã biết cách lập kế hoạch hoạt động
quản lý bảo vệ rừng và sản xuất theo năm, quý. Họ tự xây dựng quy ước quản lý bảo
vệ và phát triển rừng của thôn và được chính quyền thông qua. Họ đã biết viết một
đơn đề nghị, công văn gửi đến các cơ quan liên quan đề nghị về lợi ích của họ
trong sản xuất và cuộc sống. Các cuộc thi tìm hiểu kiến thức về lâm nghiệp cộng
đồng, hay họp hàng tháng được cộng đồng tổ chức thường xuyên.
Bên cạnh đó
người dân biết được quyền khi quản lý rừng cộng đồng: 8 quyền chung của chủ rừng
và 4 quyền hưởng lợi và một số quyền khác như quyền được học kỹ thuật trồng trọt
chăn nuôi; quyền được tham quan mô hình, quyền được sản xuất, ....Biết được cá
nhân/tổ chức nào có trách nhiệm/nghĩa vụ đáp ứng quyền của mình. (Ví dụ muốn
được cấp giấy CNQSD đất, rừng thì phải đến UBND huyện; muốn được học kỹ thuật
trồng trọt chăn nuôi thì đến Trạm khuyến nông lâm; muốn được học luật BVPTR thì
đến hạt kiểm lâm; muốn được học luật đất đai thì đến Phòng TNMT) hoặc để thực
hiện quyền của mình cộng đồng chủ động, mạnh dạn đề nghị đúng nơi, đúng chỗ, phải
có kế hoạch, phải lý giải cho được tại sao mình lại đề nghị việc đó?, để làm
gi... Biết mình không thực hiện được quyền gì, tại sao mình lại không thực hiên
được. Biết ai (cá nhân/tổ chức có trách nhiệm giải quyết quyền cho mình; tại
sao họ lại không thực hiện được) Nếu cơ quan chức năng chưa đáp ứng, sẽ có kế
hoạch đề nghị lần 2. Nếu vẫn chưa đáp ứng được hãy đề nghị cấp cao hơn; hoặc đề
nghị với đại diện của mình là Đại biểu HĐND, Đại biểu QH.
Quyền và
trách nhiệm có mối tương quan với nhau. Có quyền thì cũng sẽ phải có trách nhiệm.
Người dân đã cảm thấy họ là chủ rừng thực sự và một điều chắc chắn rằng rừng được
quản lý bền vững hơn.
Thành phần phụ
nữ chiếm số lượng lớn trong các CLB, họ tham gia vào tất cả các hoạt động của dự
án và địa phương. Trong các lớp tấp huấn, tọa đàm, sinh hoạt hàng tháng của
CLB,…luôn có sự tham gia của phụ nữ và
vai trò của họ luôn được thể hiện ở một vị thế ngang bằng với nam giới. Sự khuyến
khích tham gia của phụ nữ đã giúp năng lực của họ được nâng cao.
Cộng đồng được
cung cấp thông tin một cách đầy đủ về các vấn đề giao đất giao rừng tại Việt Nam
và địa phương, các thông tin liên quan sử dụng luật tục, hương ước hay quy ước
quản lý bảo vệ và phát triển rừng cộng đồng,…Đặc biệt là thông tin về quyền
khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trong khu rừng được giao. Như khai thác gỗ vì
mục đích thương mại, vì mục đích sử dụng tại chổ, tận dụng các loại gỗ đứng đã
chết khô, lâm sản ngoài gỗ,…
Sự tham gia của
cộng đồng được nâng lên, vị thế của người dân và vai trò của phụ nữ và nam giới
được cải thiện. Đó là những hiệu quả mang lại từ các hoạt động của dự án sau ba
năm thực hiện tại các địa bàn dự án.
4.2.
Nâng
cao trách nhiệm của cộng đồng
CLB sử dụng rừng
thân thiện môi trường thành lập theo quyết định của UBND xã và chịu sự giám sát
của UBND, thường xuyên có báo cáo cho cán bộ kiểm lâm địa bàn, xã.
Một nét đặc thù của cộng đồng dân tộc vùng
thiểu số trong quản lý bảo vệ và phát triển rừng chính là sử dụng các luật tục,
hương ước tốt đẹp. Việc lồng ghép những luật tục, hương ước này vào trong quy ước
đã được người dân thực hiện một cách hệ thống. Quy ước này mang tính pháp lý
cao, được công nhận bởi UBND huyện. Do đó, cộng đồng dân cư thôn được giao đất
giao rừng có trách nhiệm trong việc tổ chức các hoạt động như đã thống nhất
trong quy ước và thường xuyên có liên lạc, báo cáo với cán bộ địa phương.
Cộng đồng dân
cư được nhận đất rừng sẽ có trách nhiệm tổ chức hoạt động tuần tra bảo vệ rừng,
phòng cháy chữa cháy theo định kì. Các kỹ năng liên quan ngoại nghiệp và nội
nghiệp của các thành viên được cải thiện sau khi tham gia các khóa tập huấn tại
hiện trường. Các hành vi xâm hại, chặt phá rừng trái phép hay cháy rừng đã giảm
đáng kể. Các nhóm thực hiện sẽ có trách nhiệm trong việc báo cáo lại thôn, xã về
các hành vi vi phạm. Từ đó xã sẽ hướng dẫn, hỗ trợ cách giải quyết tối ưu nhất.
Nhằm mục đích đảm bảo an toàn nhất cho thành viên trong nhóm.
Khi người dân làm chủ thực sự rừng của mình thì trách nhiệm
của họ với rừng sẽ được nâng lên rõ rệt, do đó, chất lượng rừng cũng được nâng
cao. Và điều này chỉ có thể diễn ra khi nhà nước thực sự trao quyền quản lý rừng
cho cộng đồng dân cư thôn.
- Thách thức
Chính sách
can thiệp, luật pháp liên quan đến quản lý rừng của hiện tại phần nào làm mất dần
sinh kế truyền thống.
Cộng đồng dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong việc thích ứng với các
chương trình khuyến nông, đinh canh định cư, áp dụng mô hình canh tác dưới
xuôi.
Chưa hiểu về các thủ tục pháp lý liên quan đến quản lý đất và rừng
mà thường theo luật tục truyền thống.
- Kết luận
Phát huy quyền và địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư thôn
là một trong những chìa khóa quan trọng để góp phần vào quản lý rừng bền vững tại
địa phương.
Mô hình CLB sử
dụng rừng thân thiện môi trường đã giúp phát huy quyền và trách nhiệm của cộng
đồng dân tộc thiểu số tham gia vào quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Nó góp phần
quan trọng trong quản lý rừng bền vững tại địa phương.
Vai trò của
phụ nữ và tiếng nói của người dân tộc thiểu số được nâng cao hơn từ mô hình CLB
sử dụng rừng thân thiện môi trường.
Trách nhiệm của
cộng đồng dân tộc thiểu số đã phát huy khi họ được công nhận như là một chủ thể
quản lý rừng thật sự.
- Kiến nghị
Mô hình CLB sử
dụng rừng thân thiện môi trường đã thể hiện tính hiệu quả của nó. Do đó, cần
nhân rộng mô hình này tới các cộng đồng dân tộc thiểu số khác.
Để cộng đồng
được quản lý tốt rừng của mình thì dự án nên tổ chức thêm các lớp tập huấn liên
quan ngoại nghiệp và nội nghiệp.
Xây dựng một
cơ chế phối hợp tốt giữa ba bên là CLB sử dụng rừng thân thiện môi trường, ban
quản trị thôn và UBND xã là rất quan trọng. Nó sẽ tạo một thế kiềng ba chân vững
chắc trong quản lý rừng cộng đồng tại địa phương.
Đảm bảo sự
tham gia của phụ nữ và nam giới trong các hoạt động dự án sẽ giúp cân bằng vị
thế trong xã hội.
Phát triển
sinh kế là một trong những bài toán cần lưu ý trong thời gian tới của dự án. Nhằm
đảm bảo rằng rừng được quản lý tốt và sinh kế người dân được cải thiện.
Các nhà quản lý và hoạch định chính sách cần
thiết kế và thực thi các
chính sách phù hợp với từng vùng
từng địa phương và đảm bảo đầy đủ
các quyền của cộng đồng khi tham gia vào quản lý rừng tự nhiên.
Nhân rộng mô hình mới về quản lý bền vững rừng
tự nhiên và giúp cân bằng
các lợi ích môi trường trong khi vẫn duy trì cuộc sống và văn hóa của cộng đồng
dân tộc thiểu số
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét